gì đó hết sức nghiêm trọng, có thể không liên quan đến chiến tranh nhưng rất có khả năn
năng dính dáng đến sự điên rồ. – Con có điên không hả con? – Mẹ tôi hỏi, cái cách bà nhìn tôi như thể tôi vừa khoác vào bộ đồ trắng toát của bệnh viện. Tôi hiểu mẹ tôi, khi nhìn vẻ lo âu ánh lên trong đáy mắt bà. Nhưng tôi cũng rất buồn là bà không hiểu tôi như tôi đang hiểu bà. – Không đâu, mẹ à. – Tôi ủ rũ đáp. – Tại sao con lại làm thế? Tất cả mọi người đều uống nước trong ly, sao con lại thích uống nước trong chai? Chính vì tất cả mọi người đều uống nước trong ly nên tôi mới thích uống nước trong chai. Lý do hết sức đơn giản nhưng tôi chỉ dám nghĩ trong đầu. Tôi không thể nói điều đó ra miệng, e rằng sẽ làm cho mẹ tôi thêm hoảng. Nếu như bây giờ mẹ tôi còn đủ minh mẫn để nhớ lại câu chuyện hồi đó và lặp lại câu hỏi trên kia, tôi sẽ sẵn sàng giải thích cho bà hiểu rằng bọn trẻ con trên thế giới vẫn thích làm như vậy và tất cả những đứa đó chẳng có đứa nào bị điên hết. Ba tôi hừ mũi: – Ly dùng để uống nước, chai dùng để chứa nước, chén là để ăn cơm, thau là để đựng rau, đựng thịt cá, mày có biết không hả thằng kia? Thằng kia tức là thằng cu Mùi. Khi ba tôi chuyển sang gọi tôi là thằng kia, tức là ông đã giận lắm. – Dạ biết. – Biết sao mày còn trở chứng như vậy? Tôi không thể giải thích cho ba tôi, cũng như trước đó tôi đã không thể giải thích cho mẹ tôi. Sau này, khi đã là một ông bố hẳn hoi thì tôi phát hiện ra trẻ con trở chứng là thứ đầy rẫy trên trái đất này. Rất nhiều đứa trẻ không đi đứng bình thường như thiên hạ mà cứ thích nhảy chân sáo ngoài đường. Thậm chí nhiều đứa thích đi bằng mũi chân trên gờ tường cheo leo hơn là sải bước vững vàng trên mặt đất. Nhiều đứa trẻ khác đội nón cứ thích quay ngược lưỡi trai ra đằng sau. Nhiều đứa trẻ khác nữa thích dùng bút để đọ gươm và xé giấy tập để xếp tàu thuyền hơn là dùng thứ này để viết lên thứ kia. Nếu có thời gian tìm hiểu hẳn tôi sẽ tìm thấy những chú bé thích rót nước vô chai và xới cơm vô thau. Chắc chắn thế. Thật là sáng tạo, những đứa trẻ đó. Chúng làm vậy chẳng qua chỉ để cho đời bớt nhạt. Lý do mới lành mạnh làm sao! Nhưng người lớn lại coi là ngổ ngáo, ngược đời và không giống ai những điều mà bọn trẻ chỉ đơn giản coi là thú vị.
Người lớn sẽ nói, hết sức nghiêm khắc: – Này con, khi nào phải rượt đuổi ai hoặc bị ai rượt đuổi, con người mới phải chạy, khi nào cần vượt qua một chướng ngại vật như vũng nước hay mô đất, con người mới phải nhảy. Còn lúc khác, những người đứng đắn đều đi đứng khoan thai. Chẳng đứa trẻ ngoan nào lại nhảy như cóc hoặc đi trên gờ tường như khỉ thế kia! Người lớn tiếp tục bảo ban: – Người ta tạo ra cái lưỡi trai là để che nắng cho gương mặt, chỉ có những kẻ ngốc nghếch mới quay ngược cái nón lại như thế! Tới lần thứ ba thì người lớn răn đe: – Tao sắm tập bút cho mày đánh nhau và xé làm đồ chơi hả thằng kia? Tất cả những gì người lớn dạy dỗ đều đúng về mặt lý thuyết, bọn trẻ đều thấy vậy. Nhưng bọn chúng vẫn có một sự thôi thúc vô hình làm cho khác đi trong thực tế. Chẳng qua so với người lớn, trẻ con sống trong một bầu khí quyển khác và dưới một thứ ánh sáng khác. Ở đó, bọn trẻ tiếp cận thế giới theo cách của chúng, nghĩa là chúng không nhìn mọi thứ chung quanh dưới khía cạnh sử dụng. Đó là điểm khác biệt căn bản giữa trẻ con và người lớn. Với người lớn, ý nghĩa và giá trị của mọi thứ trên đời đều thu gọn vào hai chữ chức năng. Bạn lật bất cứ một cuốn từ điển nào của người lớn mà coi. Người ta định nghĩa thế giới này bằng chức năng, và chỉ bằng chức năng. Áo để mặc, ghế để ngồi, răng để nhai và lưỡi để nếm. Cho nên không thể trách được nếu ba tôi quả quyết ly mới là thứ dùng để uống nước, còn chai chỉ dùng để đựng nước, nếu mọi ông bố bà mẹ khác đều nhanh chóng đồng ý với nhau rằng nón lưỡi trai dùng để che nắng, bút để viết và tập vở tất nhiên dùng để ghi chép. Trẻ con không quan tâm đến chức năng. Đơn giản vì trẻ con có kho báu vô giá: óc tưởng tượng. Chiếc gối với người lớn là thứ để gối đầu nhưng với con Tí sún nghèo rớt mùng tơi thì đó là con búp bê hay khóc nhè mà nó phải ru mỗi ngày. Với tôi và Hải cò, áo không chỉ dùng để mặc mà còn là thứ để nắm lấy khi tụi tôi cần trì níu để vật nhau xuống đất. Nếu áo mà chỉ dùng để mặc thì chán chết. Mà thực ra nếu trời không quá lạnh thì trẻ con cũng chẳng cần mặc áo. Với mẹ thằng Hải cò, hiển nhiên cây chổi dùng để quét nhà. Nhưng nếu thấy Hải cò đứng tần ngần trước cây chổi, tôi đoán là nó đang nghĩ xem nên làm gì với cây chổi, nên ném vào cửa kiếng nhà hàng xóm để xem điều gì sẽ xảy ra sau đó hay nên cưỡi lên cây chổi rồi đọc thần chú để biết mình có bay được như các phù thủy trong truyện hay không. (Chuyện thần tiên là do người lớn viết ra, nhưng thường thì họ quên khuấy đi rằng họ viết ra chuyện thần tiên để trẻ con sống trong thế giới đó cho đến chừng nào trẻ con cũng trở thành người lớn như họ). Những ngày ngồi cặm cụi gõ những con chữ này tôi còn nghiệm ra rằng những đứa trẻ thích trở chứng là những đứa trẻ muốn thể hiện cái tôi, tất nhiên thể hiện theo kiểu trẻ con. Quay ngược cái nón lưỡi trai ra phía sau, đứa trẻ muốn khẳng định rằng ta khác với phần còn lại của thế giới, thực ra cũng khó mà khác được vì trên thế giới bao la này có rất nhiều đứa trẻ đội nón kiểu oái oăm như vậy, nhưng ít ra cũng khác với thằng bạn đi bên cạnh. Tất nhiên không phải đứa trẻ nào cũng thế. Cũng có những đứa trẻ thích giống nhau, bên cạnh những đứa trẻ thích khác nhau. Người lớn dĩ nhiên vỗ tay hoan nghênh đám trẻ thứ nhất. Vì giống lẫn nhau, đó là thứ nguyên tắc mà người lớn sùng bái. Giống nhau tức là không cá biệt, không phá phách, không nổi loạn. Là nề nếp, quan trọng hơn nữa là an toàn. Nếu thật giống đám đông, giống đến mức lẫn lộn giữa người này với người khác, thậm chí tư tưởng ai nấy đều trùng khít với nhau thì càng tuyệt đối an toàn. Nghĩ khác, nói khác và làm khác đám đông, dù là nghĩ đúng, nói đúng và làm đúng vẫn là sự lựa chọn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, trong nhiều trường hợp đó là con đường dẫn đến giàn thiêu mà Bruno là một ví dụ bi thương trong lịch sử nhân loại. (Khi mọi người đều tin rằng mặt trời quay quanh trái đất thì kẻ khăng khăng cho rằng trái đất quay quanh mặt trời chỉ có cách duy nhất là dùng cái chết để bảo vệ cho chân lý – điều đó là không thể khác). Rất may là chúng tôi – tôi, Hải cò, con Tủn và con Tí sún – không ai trở thành Bruno vào năm tám tuổi. Chúng tôi chỉ làm ba mẹ phiền lòng chứ không đụng chạm đến những trật tự và những quyền lực bất khả xâm phạm. Tôi và Hải cò không lên giàn thiêu. Nhưng hai đứa tôi buộc phải thừa nhận rằng cái ly và cái chai (cũng như cái chén và cái thau) hoàn toàn khác nhau về công dụng và để bảo đảm cuộc sống vẫn diễn ra đúng theo khuôn phép và nhất là đúng ý ba mẹ, chúng tôi đành phải đồng ý rằng chức năng của những đứa trẻ ngoan là phải sử dụng đồ vật theo đúng chức năng mà người lớn đã quy định. Sầu ơi là buồn!
TÔI NGOAN TRONG BAO LÂU
Thế người lớn muốn gì ở trẻ con? Hay cụ thể hơn, ba mẹ tôi muốn gì ở tôi? Tôi tự hỏi, sau những thất bại nặng nề trong nỗ lực chinh phục những đổi thay. Tôi nghĩ, để làm hai lòng ngườ lớn đâu có gì khó. Điều quan trọng là tôi có muốn làm hay không. Ba mẹ tôi muốn tôi ngày nào cũng thuộc bài trước tám giờ tối ư? Ngay trưa hôm đó, tôi thức dậy lúc ba tôi còn ngáy khò khò và lập tức ngồi vào bàn học, không cần đợi mẹ tôi nhắc nhở hay thúc giục như mọi lần. “Ở làng quê, người dân thường sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi, chài lưới và các nghề thủ công, xung quanh nhà thường có vườn cây, chuồng trại, đường làng nhỏ, ít người và sẽ cộ qua lại. Ở đô thị, người dân thường đi làm trong các công sở, cửa hàng, nhà máy, nhà ở tập trung san sát, đường phố có nhiều người và xe cộ đi lại”. Những đoạn văn như thế thực ra không có gì đặc biệt, thậm chí chỉ là sự lặp lại những điều tôi đã mắt thấy tai nghe. Nhưng ngay cả những đoạn văn đơn giản nhất nếu cứ vào tai này lại ra tai kia nhanh như chớp thì nó vẫn không đọng lại trong đầu bạn được. Tôi vốn dĩ là thằng bé không giỏi tập trung. Bao giờ ngồi học, tâm trí tôi cũng bị lãng đi bởi một chuyện gì đó, bất cứ là chuyện gì. Tôi nhớ lúc tôi học bảng chữ cái. Thật là khốn khổ, khốn nạn! Cô giáo dạy tôi: – O tròn như quả trứng gà Ô thì đội mũ, ơ là thêm râu. Lúc nghe những câu vần vèo đó, tôi không tìm cách phân biệt các mẫu tự mà cứ liên tưởng đến cái mũ của chú Nhiên, một cái mũ nhọn màu xanh sẫm bằng vải nỉ dày có chóp nhọn. Loại mũ đó bây giờ không còn ai đội, cũng chẳng ai buồn sản xuất nữa nhưng hồi đó nó là một kỳ quan đối với bọn nhóc mũi thò lò như tôi. Tôi rất thèm được đội lên đầu chiếc mũ của chú Nhiên, đội một tẹo thôi rồi trả lại cũng đã vô cùng sung sướng. Tất nhiên chú Nhiên thấy chuyện đó chẳng có gì nghiêm trọng: tôi đội chiếc nón bảo bối đó trước tia nhìn chằm chằm của chú, nếu muốn nghịch phá tôi cũng chẳng có cơ hội. Rồi tôi nghĩ đến ông ngoại con Tí sún. Tôi nghĩ đến chòm râu của ông. Chòm râu của ông chẳng có chút gì giống giấu ơ. Nó dài và thẳng, và rậm rạp, mỗi khi ăn phở ông phải dành riêng một tay để vén râu cho khỏi ướt. Tôi nghĩ ngợi lung tung, liên tưởng đủ thứ và khi cô giáo chỉ tay vào chữ ơ và hỏi tôi đây là chữ gì thì tôi cà lăm: – Thưa cô đây là chữ… chữ… Tôi biết cái chữ cô giáo hỏi là chữ ô hoặc chữ ơ, nhưng nó đích thực là ô hay ơ thì tôi không quả quyết được. Trong đầu tôi lởn vởn hình ảnh chú Nhiên và ông ngoại con Tí sún nhưng người nào là ô người nào là ơ thì tôi quên béng. Thấy tôi lúng búng hàng buổi, cô giáo thương tình: – O tròn như quả trứng gà Ô thì đội mũ, còn chữ gì là có râu? Tôi mừng quýnh: – Thưa cô chữ ơ ạ. Một nhà thông thái nào đó đã dùng từ mặt để chỉ con chữ. Mặt chữ – một cách nói tuyệt vời. Chuyện đầu tiên của học trò vỡ lòng là làm quen với mặt chữ, sau đó phải nhớ mặt chữ. Giống như làm quen với người nào đó và nhớ mặt họ. Hai mươi bốn chữ cái là hai mươi bốn gương mặt mà bất cứ đứa trẻ nào cũng buộc phải làm quen trước khi ý thức rằng đây là những gương mặt sẽ đi theo mình suốt đời. Đó không phải là một đòi hỏi phức tạp nhưng với đầu óc vẩn vơ như tôi thì làm thế nào phân biệt được và gọi đúng tên từng người trong hai mươi bốn mặt người mới quen đó lại là một điều quá sức. Bao giờ cũng vậy, tôi nhìn các con chữ một hồi thì con chữ không còn là con chữ nữa mà thay vào đó vô số hình ảnh không biết từ đâu hiện ra lấp đầy tâm trí tôi. Nhiều năm về sau, tôi tình cờ đọc được bài thơ Những nguyên âm của Rimbaud mới biết ông cũng từng bị óc tưởng tượng của mình cầm tù: A đen, E trắng, I đỏ, O xanh – những nguyên âm. ……………. Rimbaud không chỉ nhìn ra màu sắc của các nguyên âm. Ông còn nhìn thấy ở chữ A chiếc yếm đen của bầy ruồi, chữ E là những đỉnh núi nhọn phủ đầy tuyết, và những cánh đồng cỏ rải rác gia súc đứng gặm cỏ bình yên trong chữ U. Nhưng tuyệt nhất là ông còn nghe được âm thanh của các con chữ: tiếng kèn đồng với những nốt cao vút trong chữ O hay tiếng cười bật ra từ cơn phẫn nộ hay trong cơn say nơi chữ I… Ngay vào lúc tôi chưa đọc nhiều Rimbaud, chỉ làm quen với mỗi bài thơ Những nguyên âm thôi, ông lập tức đã là thi sĩ lớn nhất và gần gũi nhất trong mắt tôi. Tôi tin rằng khi viết bài thơ này, tâm tính ông chắc vẫn còn bồng bột trẻ con, hay nghĩ ngợi lung tung và vì cái tật này tôi đoán hồi bé ông cũng nghịch phá và bị nhiều điểm kém trong tập không thua gì tôi. Ôi, tôi lại lạc đề mất rồi. Thực ra tất cả những lời con cà con kê nãy giờ chỉ đơn giản muốn nói rằng hồi tám tuổi tôi đã la một đứa bé đầu óc luộm thuộm, luôn mất tập trung. Và tôi đang muốn nói tiếp rằng đến một ngày, tôi quyết bắt cái đầu óc mất tập trung đó tập trung cao độ, chỉ để tự chứng minh một điều: muốn làm ba mẹ hài lòng là điều vô cùng đơn giản mà bất cứ đứa trẻ nào nếu muốn cũng đều làm được. Tôi đã học bài như điên, tôi vùi đầu vào tập không cả ăn cả chơi, mặc kệ tiếng réo gọi tuyệt vọng của thằng Hải cò, con Tủn và con Tí sún không ngừng đập vào cửa sổ. Tôi học như thể ngày mai tôi sẽ chết. Tôi ngốn ngấu những con chữ như ngốn mì gói. Tôi tụng bài đến rã họng và thuộc nhoay nhoáy. Trước giờ cơm chiều, tôi không còn gì để mà học nữa. Hầu như tôi đã nuốt cả đống sách vở vào bụng. Nghe tôi trả bài vanh vách, ba tôi dụi mắt năm sáu cái liền, nức nở khen, nếu không giỏi kềm chế có lẽ ông đã ôm chầm lấy tôi và nhấc bổng tôi lên: – Thật không thể tưởng tượng được! Ông nói giọng sụt sịt và hình như ông rơm rớm nước mắt. Mẹ tôi sợ quá: – Con có bị sao không hả con? Bà sờ tay lên trán tôi, lo lắng: – Chắc con phải đi bác sĩ thôi!
Trong những ngày đó, tôi đã làm cho ba tôi sung sướng đến ứa lệ suốt một tuần lễ liền, đến mức tới ngày thứ tư tôi đã thấy ông thường xuyên nhét một chiếc khăn tay trong túi áo. Mẹ tôi cũng bình tĩnh dần. Bà đã biết tôi không bệnh tật gì, mặc dù bà vẫn tiếp tục sờ tay lên trán tôi mười hai lần mỗi ngày. Ở lớp, tới lượt cô giáo bắt đầu xoa nắn vỏ não tôi. (Sao phụ nữ giống nhau đến thế!). Cô lặng lẽ rờ rẫm xương sọ tôi (lúc đó tôi thấy cô giống thầy thuốc hơn là giống cô giáo) và cau mày hỏi: – Thời gian gần đây em có bị té ngã gì không? – Dạ có. – Tôi thật thà đáp, nhớ đến cuộc vật nhau với Hải cò cách đây mấy ngày. – Có à. – Cô giáo giật nảy – Thế em có bị đập đầu xuống đất không? – Dạ có. Tôi lại đáp, thầm nhủ bụng nếu không đập đầu xuống đất thì còn lâu mới đáng gọi là bị té. Sắc mặt cô giáo chuyển sang màu nõn chuối, cô ấn những ngón tay mạnh hơn như muốn đục vài cái lỗ trên đầu tôi theo kiểu người ta khoan thềm lục địa để thăm dò dầu khí: – Chà, thế thì đúng rồi. – Đúng gì hả cô? – Nếu đập mạnh đầu xuống đất thế nào các dây thần kinh của em cũng bị va chạm. – Cô dùng ánh mắt mân mê khắp đầu cổ tôi – Thế em đập phía trước hay đập phía sau? – Là sao hả cô? – Ý cô muốn hỏi là em đập mặt xuống đất hay đập ót xuống đất? Trông cô rất hồi hộp, và căn cứ cái cách cô nhìn chăm chú đôi môi tôi như thể đang rình một con gì đó sắp nhảy ra, tôi đoán đây là câu hỏi quyết định. Tôi cố nhớ lại và ngần ngừ đáp: – Hình như là em té sấp mặt xuống đất ạ. Tôi nói đại thế thôi, chứ thực ra mỗi khi vật nhau với Hải cò, tôi té ngã cả chục lần: ba lần đập mặt, ba lần đập ót và những lần còn lại thì đập lung tung vào bất cứ chỗ nào có thể đập được. Câu đáp bừa của tôi khiến cô giáo dãn ra. Cô thở phào và rụt tay lại: – May quá! Thế thì không sao. Trung khu thần kinh con người ta nằm phía sau ót. Không chỉ cô giáo, tụi bạn trong lớp cũng nhìn tôi bằng ánh mắt như thể nếu tôi không có tám cái tai thì ít nhất cũng có hai cái mũi. Tôi chí thú sưu tập hết điểm 10 này đến điểm 10 khác và ngày ngày sung sướng bơi trong những tiếng trầm trồ của tụi bạn. Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy học giỏi không phải là chuyện gì đáng chán, nhất là trong thời gian đó tôi luôn khoan khoái bắt gặp tiếng cười của con Dung điệu xen lẫn trong những tiếng xuýt xoa của tụi bạn. Con Dung điệu thật ra chẳng xinh đẹp gì, chỉ được mỗi cái làm điệu, nhưng tiếng cười của nó luôn khiến tôi tò mò. Tiếng cười của nó nghe như tiéng nhạc,
Đến trang: